Nhận định Quỷ_Xương_Cuồng

Trong bài nghiên cứu "Cọp, từ Mộc tinh đến ông Ba Mươi" của tác giả Đặng Tiến viết năm 2010, đã chỉ ra Xương Cuồng được nhắc trong truyện Mộc tinh chính là thần Hổ, cũng là Ông Ba Mươi theo dân gian thường gọi. Bên cạnh đó, trong tác phẩm kể trên có giải thích ý nghĩa của tên gọi "Xương Cuồng". Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược, tàn ác, không thể trấn áp được. Có thể suy ra, Xương Cuồng vốn dĩ không phải một tên gọi, mà là tính chất.

Phạm Đình Hổ từng viết về thần Hổ trong tác phẩm Vũ trung tuỳ bút: "Làng Ngọc Cục ở huyện ta, khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ."

Từ nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ, cho thấy:

  • Trong Huyền học (Kỳ môn độn giáp) có vị hung thần là Bạch Hổ Xương Cuồng (白虎猖狂) có nghĩa là hổ trắng gầm rú.
  • Còn có câu: "Xương kì nhất ngộ hổ sinh phong" (昌期一遇虎生風/Đề kiếm 題劍) có nghĩa là "Khi gặp đời thịnh thì hổ sinh ra gió".
  • Trong một số tín ngưỡng dân gian, loài hổ được xem như hoá thân thành tinh của cây cổ thụ to lớn nhất của khu rừng – nơi loài hổ thường chọn để rình bắt mồi. Là loài thú uy dũng, mạnh mẽ, mà được xưng tụng là "Chúa sơn lâm".
  • Vì sao gọi con hổ là Ông Ba Mươi và cúng thần Xương Cuồng vào ngày Ba mươi tháng Chạp? Trong thập nhị địa chi, chi thứ ba là chi Dần (Tý, Sửu, Dần). Chi Dần là con Hổ. Trong thập can, số 10 là số Kỷ-còn gọi là Cả hay Kỵ. Vậy, ngày Ba Mươi nghĩa là Kỵ Dần–ngày cúng Hổ.
  • "Chiên đàn" vốn là loài cây được nhắc đến trong nhiều truyện cổ, song thường gắn bó mật thiết đến yêu quái. Phép phiên âm của Chiên đàn là Chàn hay Chằn. Chiên đàn chính là tên viết âm Nôm của từ Chằn. Chằn tinh vốn chỉ loài yêu quái nói chung. Vậy, gọi cây Chiên đàn tương đương với cách gọi Mộc tinh. Theo báo Phú Thọ, trong cuốn Thiên Nam vân lục liệt truyện (tân biên) của Nguyễn Hãng, hiệu Nại Hiên tiên sinh, quê làng Dòng, viết vào thời Lê Thánh Tông có truyện Quỷ Xương Cuồng, phần đầu truyện giống như Truyện Mộc tinh.

Phần tiếp theo kể rằng: "Đến thời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua mời một đạo sỹ tên là Vân Du dùng thuật lạ mới giết được con quỷ điên này. Thuật lạ bao gồm: Kỵ (cưỡi), can (xào), điếu (câu), hiểm (vỗ tay) thường tổ chức vào dịp cuối năm để dâng hiến các thần, cũng có thể dùng để lừa quỷ điên. Kỵ là cưỡi ngựa phi chạy, lựa mình nhặt lấy vật rơi dưới đất. Can là nằm ngửa dùng chân nâng gậy để người khác quất vào đầu gậy mà không đổ. Điếu là làm cầu phi vân cao 12 thước, bện đay làm chão dài 26 thước, buộc hai đầu chôn dưới đất mắc lên cây mà đi lại, chạy nhảy, treo mình, cúi ngửa trên cây mà không ngã xuống. Hiểm là vỗ tay nhảy nhót, hoan hô, lăn đi lật lại, tiến lui lên xuống.

Những trò chơi này thường có chuông trống náo loạn, có ngâm vịnh, nhảy múa góp vui. Trong lúc bày cuộc vui náo nhiệt, thờ phụng, quỷ điên vui vẻ hưởng lễ, không để ý đến việc khác, Vân Du lừa lúc nó không đề phòng, đọc câu quyết thần bí rồi dùng kiếm chém chết. Bộ hạ của quỷ điên chạy tan tác cả. Từ đó yêu khí hết, dân chúng yên ổn làm ăn."

Vị pháp sư diệt thần Xương Cuồng được nhắc đến trong đoạn trích trên tên là Vân Du, trong Lĩnh Nam chích quái gọi tên Văn Du Tường. Pháp sư Văn Du Tường có hành trạng giống thần Không Lộ, tuy nhiên Lĩnh Nam trích quái cũng đã chép các chuyện về Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không riêng nên không thể coi Văn Du Tường là thần Không Lộ được. Mặc dù với nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ thì có thể thấy việc Không Lộ thiền sư chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông hóa hổ giống thành tích diệt quỷ thần Xương Cuồng. Ngoài ra, theo bài: Cọp, từ Mộc tinh đến Ông Ba mươi thì Lĩnh Nam Chích Quái thuật chuyện Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết. So với chính sử, Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ nhà Thục, kể rằng Nhâm Ngao là tướng nhà Tần cùng với Triệu Đà đem quân tấn công nước Âu Lạc của An Dương Vương. Năm 210 trước Tây Lịch, Triệu Đà xâm lấn bằng đường bộ, bị thua. Nhâm Ngao đem thủy quân đóng ở sông Tiểu Giang, tức sông Thiên Đức, hai năm sau bệnh nặng, giao quyền lại cho Triệu Đà và khuyên Đà tự lập, rồi chết.